|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Giáo sư Trần Thái Đỉnh
(14.11.1922 - 12.11.2005)
Mới đây, tôi đọc được bài viết của anh Bùi Văn Nam Sơn (anh Bùi Văn Nam Sơn là học trò GS Đỉnh, anh là tác giả đã dịch cuốn Phê phán Lý Tính Thuần Túy của Emmanuel Kant, nxb Văn Học) trên Diễn Đàn số 155, tháng 10, 2005. Anh đã viết giới thiệu cuốn Triết Học Kant của Giáo sư Trần Thái Đỉnh.
Vậy mà nay Giáo sư Trần Thái Đỉnh không còn nữa. G.S đã ra đi vào lúc 7 giờ sáng, ngày 12 tháng 11, năm 2005, sau một cơn bệnh nặng, thọ 84 tuổi.
Mặc dầu không được là học trò Giáo Sư Đỉnh trong những năm GS dạy ở Đại Học Văn Khoa Sàigòn, Huế như phần đông các sinh viên Triết học thời thập niên 1960-1970. Và đáng nhẽ phải dành chỗ cho những môn sinh của GS viết bài này mới phải. Nhưng trộm nghĩ, tôi có cái duyên may là GS Đỉnh là bạn cùng lứa tuổi với người anh cả và bạn đồng nghiệp với người anh thứ của người viết ở Đại Học Văn Khoa Sàigòn. Chính trong cái liên hệ dây mơ rễ má rất Việt Nam mà người viết có cơ hội quen biết khá thân tình với G.S Đỉnh cũng như các giáo sư ở thời kỳ đó như Lý Chánh Trung, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Lê Tôn Nghiêm.
Điều trần tình này chắc cũng sẽ được nhiều bạn bè, nhiều sinh viên thời đó biết và chia sẻ.
Hôm nay GS đã ra người thiên cổ. 84 năm cuộc đời. 58 năm trong nghề dạy học. Làm nghề thầy kể là không dễ. Nhưng Giáo sư Đỉnh đã để lại cả một di sản tinh thần, một phong độ, một nhân cách. Một con người lúc nào cũng cười khanh khách, có khoan hoà và đồng cảm.
Nếu tôi còn giữ lại điều gì nơi G.S. Không phải là những lúc ông bàn luận nghiêm chỉnh triết học. Những lúc như thế, tôi thường đùa nghịch, pha chè cho loãng ra cái nghiêm nghị quá độ của thói quen suy nghĩ triết học. GS cũng vẫn cười và lảng sang truyện khác.
Cái tôi còn giữ là phong cách và nụ cười của G.S
Tôi ngồi mường tượng ra không biết bao nhiêu môn sinh của G.S, hằng ngàn môn sinh như thế. Từ những chú bé ở Tiểu chủng viện Ninh Cường, Bùi Chu vào những năm sau 1945. Đầu các chú húi cua, đi chân đất, sốc sếch cái áo dài đen. Rồi đến những tu tập sinh Đại chủng Viện Xuân Bích. Và nhất là các sinh viên từ nhiều nơi. Huế, Sàigòn rồi Đàlạt. Nay tản mát trên khắp thế giới. Những môn sinh đó, dù là chú bé ở Bùi Chu, hay anh SV Đại Học. Nay thì phần đông bọn họ đã thành danh. Không thiếu những người đã đi theo con đường của GS đã đi. Có người là Giáo sư đại Học, có người là Linh Mục. Có người là Giám Mục. Không phải vài vị, mà nhiều nữa. Không biết bao nhiêu là trí thức. Có những người chuyên khoa và chuyên sâu vào Hegel, Kant, vào Descartes, Heidegger. Họ có thể đã vượt cả thầy mình. Điều đó hẳn là như thế. Có người là những nhà văn viết dưới ngọn cờ Triết học, có những người nghiên cứu Triết học Tây Phương cũng như Đông Phương ở các đại học nổi tiếng trên thế giới.
Tất cả, đã từ hơn nửa thế kỷ nay. Kẻ trước người sau, họ đều là môn sinh của Giáo Sư Đỉnh. Chẳng hạn như Huỳnh Như Phương, còn trẻ, thế hệ đàn em, nay là Trưởng Khoa Ngữ Văn, Thành phố Hồ Chí Minh đã viết đôi dòng về GS trên tờ Tuổi Trẻ.
Tôi muốn cùng với họ nhân dịp này chia sẻ với nhau về một người thầy, về một thế hệ thanh niên trí thức được đào tạo ở miền Nam. Nhìn lại trong buổi về chiều, tôi không khỏi hãnh diện vì đã được đào tạo trong cái môi trường mảnh đất miền Nam đó. Đi ra bốn phương, nhìn lại mình, nhìn lại bạn bè mình, tôi mới thấy rằng từ nơi đó, cả một thế hệ thanh niên trí thức đã cảm thức được một điều vô giá: Tinh thần tự do trong Đại Học. Tự do giảng dạy, tự do suy nghĩ, tự do chấp nhận hay không chấp nhận, tự do nói đồng ý hay không đồng ý. Miền Nam có mất gì thì mất, có thể đã mất tất cả. Nhưng cái còn lại là tinh thần tự do trong giảng dạy. Trần Thái Đỉnh đã thể hiện đúng cái tinh thần ấy. Các chiều hướng tư tưởng triết học hiện sinh hữu thần cũng như vô thần, tư tưởng của Mác xít-Lênin, Phật Giáo, Lão giáo, Khổng giáo. Có hết, có đủ cả. Ngồi chung trong những phòng giảng đường. Chỗ này âm vang Heideigger, chỗ kia ông Mác oang oang, chỗ kia Khổng Tử từ tốn, chổ kia thong dong ông Bụt. Cửa mở và ra vào tự do.
Đó là cái ưu vượt của miền Nam mà mỗi người phải tự hãnh diện về những năm tháng ấy.
Trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa, trải qua nhiều thời kỳ biến động. Nó vẫn giữ được phong thái của mình. Nó vẫn là niềm tự hào của giới trẻ.
Trong khuôn viên Ðại học thời ấy, tinh thần tín điều, giáo điều hầu như vắng bóng, hay nói đúng hơn, nó không còn chỗ đứng, bởi vì tinh thần phê phán đã được đánh thức trong tư duy của sinh viên trí thức đồng thời với những trào lưu tư tưởng Đông Tây đa dạng, cởi mở và phong phú.
Thí dụ điển hình nhất là ở Đại Học Đàlạt. Chúng ta nhớ lại những người thầy như Gauthier, Palacios, Raguin, Pineau, Cras, Tchen 1 và Tchen 2, Larre. Họ đều là những tu sĩ Linh mục. Nào có nghe lấy một lần, họ dùng bục giảng để nói về tôn giáo của họ. Sự bảo vệ tinh thần tự trị Đại Học ở miền Nam là một điểm son cần gìn giữ lấy. Và sự bảo vệ ấy nếu có được một phần cũng là do tinh thần của các vị giáo sư ý thức được vai trò của mình, ý thức được sứ mệnh của một người đi truyền bá kiến thức.
Tôi tiếc rằng, các thế hệ đàn em sau này đã không bao giờ có cơ hội trưởng thành trong cái không khí tự do như thế nữa. Ngày nay, ai nói gì thì nói, chê trách với đủ thứ âm mưu... Tôi chỉ cười. Tôi đã thở hít cái tự do trong suốt 20 năm ấy như thế và nhờ đó tầm nhận thức đã lớn lên, tôi sẽ ngồi viết lại điều này trong nay mai.
Tin Trần Thái Ðỉnh không còn nữa đã làm cho tôi bồi hồi nhớ lại quãng thời gian lận đận trong nghề «dạy triết» mà giáo sư Trần thái Ðỉnh là một trong những người đầu tiên vỡ luống cày. Nghĩ đến giáo sư là không thể không nghĩ đến những môn sinh của giáo sư.
Không thể kể tên hết mọi người ra đây.
Có lẽ họ cũng đồng tâm trạng như tôi khi nghe tin đau buồn này. Tất cả, từ khắp nơi trên thế giới, từ Âu Châu đến Mỹ Châu, Úc Châu, Phi châu, từ trên bục giảng các trường Đại Học và nhất là từ trong nước. Họ mới thấm thía được cái bài học tự do là gì. Giá trả như thế nào. Trong tâm tưởng có lẽ ai cũng đều hướng về VN, chịu tang một người thầy, một người anh. Thầy hay anh thì đều theo nghĩa mở đường, khai sơn phá thạch. Họ, những người như Trần Thái Đỉnh đã đặt những viên đá tảng đầu tiên với gia tài vốn Triết Tây còn quá mới mẻ và còn quá non nớt.
Những môn sinh nhiều thế hệ của thầy Trần Thái Ðỉnh sẽ cùng tôi chia sẻ những dòng này, họ sẽ cảm thấy dự phần, thấy có mình trong đó, hồi tưởng lại dĩ vãng về một người thầy khả kính. Nhớ lại một thời thanh niên miệt mài triết học. Hồi tưởng lại, họ sẽ khó có thể quên được bóng dáng trí thức của GS Đỉnh vì nó đã in dấu tích trong đầu họ những khái niệm mở đầu cho nhập môn triết học. Họ đồng thời sẽ liên tưởng đến những người khác như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Lê Thành Trị, Trần Văn Toản, Thầy Kiết, Thích Thiên Ân, Nguyễn Ðăng Thục. Đặc biệt một trí thức ở Pháp, ông Trần Thiện Đạo chỉ gửi bài về trong nước với khoảng trên 3 chục bài viết và dịch về triết thuyết Hiện sinh. Thật rất tiếc ít người biết đến ông ở thời kỳ đó. Dung Đạo, Hoàng Châu Thanh, Thu Thủy, Trần Thanh Hiệp, Phạm Công Thiện, Vũ Khắc Khoan, Trần Triệu Luật, Thụ Nhân, Bùi Ngọc Dung, Phạm Kiều Tùng, Vũ Đình Lưu (một dịch giả tài ba) Trần Phong Giao, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Minh Hoàng, Thích Đức Nhuận, Hoàng Văn Đức, Tam ích, Vĩnh Phong, Đỗ Long Vân, Lê Huy Oanh, Lê Tuyên, Lữ Phương, Khải Triều, Cao Thế Dung, Phùng Thăng, Hồ Dã Tưởng, Cô Liêu, Đỗ văn Mộng Hùng, Nguyễn Học Sĩ, Nguyễn Văn Phiên, Nghiêm Xuân Hồng, Hoàng Đông Phương, Phạm Hùng, Trần Quý Thông.
Hoặc giả những giáo sư Triết cấp Trung học với những người đã khai tâm cho họ như Trần Văn Hiến Minh, Nguyễn Văn Khiết, Cao Văn Luận, Trần Đức Huynh, Trần Bích Lan. Tiếp theo đó là Trần Đức An, Vĩnh Đễ. Nay phần đông họ đã lìa khỏi cõi trần. Và tôi đã đánh giá sách giáo khoa Triết của GS Cao Văn Luận đứng hàng đầu trong giai đoạn này, ở thời kỳ này (1955-1965) Đã có hàng nửa triệu học sinh tú tài đã qua cầu, đã qua thử thách các kỳ thi tú tài mà trong số họ đã vượt qua thử thách cam go của kỳ thi tú tải 2 nhờ bộ sách giáo khoa này.
Tiếp nối Cao Văn Luận là bộ sách Giáo khoa của Vĩnh Đễ, cập nhật hơn theo một chương trình mới. Đầy đủ hơn, phương pháp hơn và hợp lý hóa hơn.
Rồi những môn sinh thế hệ thứ hai. Họ như những dòng sông chảy chan hoà, trải rộng, trải dài ra khắp miền Nam. Họ có thể là Trần Đức An, Lê Thanh Hoàng Dân, Vĩnh Đễ, Nguyễn Xuân Hoàng, Đinh Văn Hải, Chị Hoàng Mỹ Hiền, chị Chu Kim Long rồi Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Đa, Bùi Ngọc Dung, Trần Công Tiến, Nguyễn Ngọc Phách, Nguyễn Tử Lộc, Đặng Phùng Quân, Thụ Nhân, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Trần Văn Nam, Trần Nhựt Tân, Nguyễn Nhật Duật, Đặng Tiến, Thạch Chương, Nguyễn Đăng Trúc, Nguyễn Văn Khang, Đỗ Hữu Nghiêm, Thân Văn Luận, Nguyễn Ngọc Trương, Vĩnh Tân, Đậu Vương Quyền, Đinh Vĩnh Phúc, Nguyễn Xuân Oánh, Nguyễn Văn Sơn.
Ngoài Huế có chị Phương Chi, Diệu trang, Thái Kim Lan, Tống Thị Lan, Nguyễn Châu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Văn Giầu, Thái Kim Lan, Lê Tử Thành, Nguyễn Nguyên Phương, Trần Xuân Kiêm.
Họ có thể ở mãi miệt Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên. Xa xôi có, hẻo lánh có. Nổi tiếng một thời có, vô danh, âm thầm không ai biết đến có. Hoặc là nay đã không còn có mặt trên dương gian này. Ngoài ra, họ còn là những Ngô Đức Diễm, Nguyễn Vy Khanh, Phạm Phú Minh (Phạm Xuân Đài) Tô Văn Lai, Nguyễn Văn Vũ, Trương Đình Tấn, Nguyễn Hữu Hiệp, Dương Văn Ba, Phạm Minh Quý, Đỗ Phương Anh, Võ Túc, Trương Toàn, Nguyễn Thanh Tùng, Hoàng Minh Khánh, Vĩnh Phiếu, Nguyễn Văn Thuộc, Chị Phan Thanh Gia Lai, Chị Đoàn Phi Loan, chị Thanh Tân, Nguyễn Duy Diệm, Hồ Công Hưng, Võ Doãn Nhẫn, Bành Ngọc Quý, Nguyễn Đồng, Nguyễn Quốc Tuấn, Hồ Công Danh, Phùng Quyên, Nguyễn Văn Lan…
Cạnh đó có một số linh mục tu sĩ kể có đến vài trăm. Trong đó có LM Trần Đức Tài, Trần Văn Nghi, Nguyễn Văn Luận, Nguyễn Văn Sáu, Nguyễn Văn Thành, Hồng Kim Linh, Dương Đức Toại, Hoàng Kim, Khổng Năng Bào, Trần Đình Quang, Hoàng Cao Khải.
Hằng vài trăm người như thế mà không thể nêu ra hết... Họ là những người đi gieo hạt Triết trên khắp các cánh đồng miền Nam.
Tôi muốn cùng họ nhắc lại với nhau những kỷ niệm đẹp của miền Nam, của trí thức miền Nam trong những năm tháng ấy. Qua Trần Thái Đỉnh, chúng ta đều biết rằng đôi khi, họ, những người thầy cũng ngu ngơ, lúng túng bởi vì học chưa tới, đọc chưa tới, hiểu chưa tới. Nào ai dễ nắm bắt được dễ dàng những Kant, Heidegger. Người học trò xứng đáng nhất vẫn là người học trò hiểu được giới hạn của kiến thức của thầy và đồng cam chia xẻ trong buổi đầu. Thầy có thể vừa học, vừa dạy. Học chưa thông, đôi lúc giảng dạy lúng túng thấy rõ. Ngập ngừng đến đáng thương hại.
Nhưng Trần Thái Đỉnh thì bất cứ một môn sinh nảo cũng phải nhìn nhận rằng, ông là ông thầy giáo đúng nghĩa. Phong cách đã đành. Nhưng giáo trình sáng sủa, khúc chiết, mạch lạc, hệ thống, nói vừa đủ.
Bằng chứng là khi cuốn sách Triết Học Hiện sinh của Trần Thái Đỉnh, 1969 được xuất bản, theo nhà Xuất bản Thời Mới, Ông Tràng Thiên (Võ Phiến) cho biết cuốn sách bán hết ngay (2500 cuốn), trong khi đó có cuốn của Lê Thành Trị bán không được, vì viết khó hiểu.
Mỗi bài giảng đều phải đi qua một người thầy. Bản thân bài giảng mang phong cách của Thầy. Đã hẳn có cái phong cách Trần Thái Đỉnh. Đúng như nhận xét của Bùi Văn Nam Sơn khi viết về Trần Thái Đỉnh: "Những tác phẩm của Giáo sư Trần Thái Đỉnh là những cuốn sách có tính chất giáo khoa để người đọc dễ dàng đi vào lãnh vực Triết Tây. Đó là những cuốn sách gối đầu giường cho những ai muốn tìm hiểu một cách căn bản và hệ thống các tác giả và các chủ đề về Triết học".
Bài viết để tưởng niệm Trần Thái Đỉnh cùng với những người đồng nghiệp, môn sinh của Giáo sư; tôi có thể đã quên nhiều người. Làm sao nhớ cho đủ. Xin tạ lỗi với những anh em đó. Mọi lời nói thêm nữa có thể là điều bất kính đối với ông. Xin được bái biệt.
Sau đây là những tác phẩm và những bài viết của GS Trần Thái Đỉnh đã được xuất bản để giúp mọi người có thể truy cập và cũng có thể cần được bổ túc thêm:
1.- triết học Descartes
2.- Triết học Kant
3.- Triết Học Hiện Sinh, phỏng dịch từ Colin Wilson
4.- La théorie du Boudhisme
5.- Người Công giáo trước thời đại
6.- Triế học nhập môn
7.- Khái niệm bản ngã trong tư tưởng Triết Học Phật Giáo
8.- Hiện tượng luận là gì
Về các bài viết ký dưới bút hiệu Trần Hương Tử:
Bộ mặt của Triết học Hiện sinh (Bách Khoa, số 114-1961)
Những đề tài Triết học Hiện sinh (số 115)
Hai ngành chính cua 3 Triết Học Hiện sinh (số 116)
Kierkegard, ông tổ Triết Học Hiện sinh chính thức (số 117-118)
Nietzsche, Hiện sinh vô thần (số 119-120)
Husserl, ông tổ văn chương Triết lý Hiện Tượng Học (số 121)
Phương pháp Hiện Tượng Học (số 122)
Sartre, Hiện sinh và Siêu Việt (số 123)
Triết Gia và Hiện Sinh (số 124)
Siêu Việt thể của Jaspers (số 125-126-127)
Marcel Hiện sinh và Huyền Nhiệm (số 129-130-131)
Sartre hay là thuyết Hiện sinh phi lý (số 132)
Nhân sinh quan của Sartre (số 133-134- 1962)
Tổng kết về Phong Trào Hiện Sinh (số 135-136)
Heidegger và bản chất của thi ca (số 169)
Triết Hiện sinh và chính trị (số 124 - Trần Thái Đỉnh)
- Tình Con Người trong truyện: Đôi mắt người bị xử bắn trong rặng bình bát Nguyễn Văn Lục Nhận định
- Nguyễn Chí Thiện: người cầm bút không bị bẻ gãy Nguyễn Văn Lục Nhận định
- Đọc “Một góc ký ức và bây giờ” của Vũ Thế Thành Nguyễn Văn Lục Nhận định
- Đôi dòng tưởng niệm cố Giáo sư Trần Thái Đỉnh Nguyễn Văn Lục Hồi ức
- Tóm lược về sự hình thành của Tạp chí Đại Học Nguyễn Văn Lục Nhận định
- Hiện trạng văn học miền Nam sau 1975 ở miền Nam và ở Hải ngoại Nguyễn Văn Lục Khảo luận
- Từ Nam Phong Tới Bách Khoa Nguyễn Văn Lục Khảo luận
- Giới Thiệu và Nhận Xét về Tập San Sử Địa của hai miền Nam Bắc Nguyễn Văn Lục Khảo luận
- Sách Cũ Miền Nam 1954 - 1975 Nguyễn Văn Lục Nhận định
- Từ Nguyễn Chí Thiện đến Nguyễn Đắc Kiên Nguyễn Văn Lục Nhận định
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Trang Thơ (Phù Sa Lộc)
• Trần Thị NgH, viết: xạo ke , vẽ: cà rỡn (Nguyễn Lệ Uyên)
• Nhớ Nguyễn Mộng Giác. Và tưởng nhớ một thời văn (Bùi Vĩnh Phúc)
• Đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Doãn Cẩm Liên)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |